Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013

Không có tiền, chẳng thể phát triển khoa học'

Hinh dong vat,ten mien tieng viet

giả như điều kiện làm việc như nhau, nhà khoa học ở Mỹ nhận lương 3.000 USD và làm mướn trình khoa học trong một năm, thì cũng anh đó ở Việt Nam lương 150 USD và mất 20 năm mới ra được công trình khoa học là điều hài lòng được.
Anh Nguyễn Thanh Tùng, làm việc tại khoa Vật lý và Thiên văn học, Đại học Leuven, Vương quốc Bỉ, dự diễn đàn: "Vì sao các nhà khoa học làm việc trong nước ít có công trình nghiên cứu đăng trên tập san nước ngoài". Anh cho rằng nền kinh tế Việt Nam còn kém phát triển, thành ra, Việt Nam khó có thể đột ngột tăng lương cho nhà khoa học, dồn tiền cho phòng thể nghiệm.

"Tôi thấy đa phần chúng ta đều thấy thực trạng của nền khoa học Việt Nam qua các con số, thông tin và phân tích của các học giả có uy tín ở nước ngoài ở các bài viết trước đăng trên VnExpress, nhất là bài viết của tiến sĩ Bùi Dương khiến chúng ta không khỏi giật mình: "Theo thống kê Viện thông tin khoa học (ISI), trong 15 năm qua (1996-2011) Việt Nam mới có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố trên các tạp chí quốc tế có bình duyệt, bằng khoảng một phần năm của Thái Lan (69.637), một phần sáu của Malaysia (75.530), và một phần mười của Singapore (126.881). Trong khi đó, dân số Việt Nam gấp 17 lần Singapore, ba lần Malaysia và gần gấp rưỡi Thái lan".

Đó là những con số đáng báo động và chúng ta phải hành động ngay khi quá muộn. Các giải pháp nhắc đến nhiều như đầu tư thỏa đáng, lôi kéo giới khoa học quốc tế về giảng dạy và làm việc, quốc tế hóa tiêu chuẩn đánh giá khoa học, nhưng với các giải pháp đó, chúng ta sẽ chữa trị không tận gốc vấn đề của khoa học Việt Nam.

Tôi xin đưa ra đây vài con số để các bạn thấy, không phải quá mới, song hình như thành ra mà mọi người coi nó là thông thường. Theo thưa phát triển Việt Nam 2009 của Ngân hàng Thế giới, thu nhập bình quân đầu người Việt Nam tụt hậu 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore. Năm 2010, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng một phần năm Thái Lan, một phần tám Malaysia và một phần bốn ba so với Singapore.

Phải dấn rằng vai trò từ hỗ trợ tài chính rất quan trọng đối với khoa học công nghệ, kể cả nghiên cứu cơ bản lẫn áp dụng. Trong đa số các lĩnh vực khoa học, nhà khoa học với sự hỗ trợ của cỗ máy tối tân có thể hơn cả trăm nhà khoa học mà trong tay chỉ có bút và giấy.

lương bổng cũng rất quan trọng. Khi thế giới trở nên phẳng, chiếc iPhone có giá hầu như chơi đổi trên mọi quốc gia, thì việc đòi hỏi nhà khoa học trả 150 USD/tháng, kể cả khi có đầy đủ máy móc, làm việc tương đương với một nhà khoa học được trả 3.000 USD/tháng là quá vô lý.

giả như điều kiện làm việc ở Việt Nam và Mỹ tương đương, nếu nhà khoa học nhận lương 3.000 USD và sản xuất công trình khoa học trong một năm, thì việc nhà khoa học Việt Nam đó nhận lương 150 USD và mất 20 năm mới ra được công trình khoa học là hoàn toàn hài lòng được, theo cách hiểu đơn giản về hiệu suất kinh tế. thí dụ này không phải để bao che cho sự chậm tiến bộ của khoa học Việt Nam, mà tôi cho rằng, chúng ta nên trông sự phát triển của khoa học Việt trong mối quan hệ biện chứng với nền kinh tế. Nói nôm na là "có thực mới vực được đạo".

Ai cũng biết giới khoa học không sống bằng 3 triệu đồng tiền lương, nhưng hàng tháng, họ vẫn nhận món lương "giả tảng" này và đáp lại là nghiên cứu "giả tảng". Tuy nhiên, chúng ta không thể đột ngột tăng lương cho nhà khoa học, dồn tiền cho phòng thể nghiệm, vì như thế sẽ phá vỡ thăng bằng của tầng lớp, tạo ra sự bất công cho các lĩnh vực khác, như giáo dục, y tế, quốc phòng, văn hóa, thể thao.

Nền kinh tế là trái tim của cả nước. Trái tim yếu ớt thì các bộ phận không thể phát triển được. Và đấy là lý do không chỉ khoa học, mà nhiều lĩnh vực khác của Việt Nam cũng chưa có dấu hiệu khởi sắc.

 

'Nên làm thân với các nhà khoa học uy tín quốc tế'

Hinh dong de thuong,ten mien dat nhat viet nam

Nguyễn Hoàng Long, đang nghiên cứu và giảng dạy tại khoa công nghệ thông báo, trường đại học Oxford, Vương quốc Anh san sớt kinh nghiệm trong diễn đàn: "tại sao khoa học Việt ít công trình đăng trên tùng san quốc tế", trong đó anh Long nhấn mạnh đến tầm quan yếu của việc tạo mối quan hệ với các chuyên gia có uy tín thế giới.

"Trong bài viết này tôi sẽ đề cập đến vấn đề làm sao một nhà khoa học làm việc tại Việt Nam có thể đăng báo trên tùng san có tiếng thế giới. Đây là kinh nghiệm mà tôi tích lũy được khi nghiên cứu và giảng dạy tại trường đại học Oxford.

đầu tiên khoa học ở thế kỷ 21 có nhiều điểm giống như một ngành công nghiệp, cạnh tranh bởi ti tỉ trường đại học, các viện nghiên cứu nhà nước hay công ty đa nhà nước chạy đua để ra kết quả mới nhất. Điều này xúc tiến việc xuất bản công trình trên tùng san khoa học.

Nó không giống thế kỷ 16 đến 19 khi có những nhà bác học lỗi lạc như Darwin dành vẹn tròn thế cục nghiên cứu thuyết Tiến hóa để rồi chỉ xuất bản một quyển sách về lý thuyết đó.
Quan hệ cũng quan yếu

Như mọi ngành nghề khác trong cuộc sống, làm khoa học cũng cần các mối quan hệ. tại sao điều này khôn xiết quan yếu? Từ kinh nghiệm bản thân và những cái tôi thấy ở những trường Đại học nức danh, trong cả sự nghiệp nhà khoa học chỉ một đôi thời khắc đích thực lóe sáng để có những ý tưởng đột phá có thể được xuất bản ở bất kỳ tùng san nào. Phần còn lại thường là những sáng kiến, hoặc cải thiện nhỏ, thỉnh thoảng còn gây tranh luận để dần dần cải tiến một phương pháp hay kết quả khoa học đã được biết trước.

Trong khi đó quá trình nộp bài báo đến một tùng san lớn thường mất thời kì, nhàng nhàng một đến hai năm. Một bài báo được in sẽ qua vài vòng xét duyệt có quan điểm phản biện của cả người xét và tác giả. Hơn nữa ban biên tập phải tìm được người có đúng chuyên môn và "tình nguyện" đồng ý nhận xét bài báo.

Do người xét không được nhận kinh phí, thời kì để đọc một bài báo là vô vùng eo hẹp, chuyện ai là tác bài báo, bài báo được nộp từ trường đại học nào sẽ tạo nên một ấn tượng quan yếu ngay từ ban sơ. Nếu tác giả là chuyên gia uy tín, thì mặc dầu người ta chưa đọc, họ vẫn có sự tin tưởng.# vào kết quả mà tác giả khẳng định ở lời giới thiệu.

Vậy làm sao một nhà nghiên cứu Việt Nam có thể hiệp tác với một chuyên gia nước ngoài? Theo ý kiến của tôi, núm cá nhân chủ nghĩa là quan yếu hàng đầu. Những điều kiện tình cảnh như chính sách quốc gia hay môi trường nghiên cứu có giúp ích song chẳng thể thay thế.

Tại thời khắc ngày nay, có nhiều bạn trẻ Việt Nam đang học đại học, thạc sĩ hay nghiên cứu sinh tại các trường đại học tốt trên thế giới. Việc xuất bản cùng giáo sư đầu ngành trong quá trình làm nghiên cứu sinh sẽ là bước khởi đầu. Sau khi xong thạc sĩ hay nghiên cứu sinh, quay về Việt Nam công tác ở các trường đại học trong nước, chúng ta cần tìm cách giữ và phát triển mối quan hệ với thầy cô và đồng nghiệp ở nước bạn.

Tuy nhiên còn nhiều nhà khoa học ở Việt Nam không có may mắn đi học nước ngoài, liệu họ có thời cơ không?

Như tôi nói bên trên, việc cùng tác giả người Việt Nam làm nghiên cứu sinh và đay nghiến của họ ở nước ngoài là một khả năng. Theo tôi được biết, các trường đại học Việt Nam cũng phối hợp làm việc với các trường nước ngoài, các bạn nên tận dụng mối quan hệ này để tìm cách cho bản thân mình đến thăm và làm việc các trường bạn một thời kì.

Trong hội thảo khoa học tổ chức trong và ngoài nước nên chủ động làm quen, luận bàn ý tưởng, nếu thấy hợp lý thì xin chuyên gia cho mình đến thăm, học hỏi nhóm nghiên cứu của họ. Để thành công, các bạn nên tìm hiểu qua Internet về từng chuyên gia trước khi họp mặt. tỉ dụ họ là người nước nào, làm nghiên cứu và giảng dạy ở đâu, họ đã và đang làm về lĩnh vực nghiên cứu mũi nhọn nào và hiệp tác với ai. Từ đó chúng ta có thể nói về các chủ đề cả hai bên đều biết và ham. Chúng ta cũng có thể nên gửi email giới thiệu bản thân và hỏi thêm thông báo về bài giảng của họ trước và sau khi họp mặt chính thức.

Một điều quan yếu khác là chúng ta cần xác định uổng đi thăm nhóm nghiên cứu, ăn ở là từ phía mình để tăng thời cơ được nhận lợi. mặc dầu tạo đúng mối quan hệ là việc "nói dễ hơn làm" các bạn nên nhớ mình có thể hỏi đến hàng trăm người nhưng chỉ cần một người ưng ý là cánh cửa của công tác khoa học sẽ mở ra.

Mối quan hệ với các chuyên gia có uy tín ở nước ngoài sẽ mở ra nhiều thời cơ khác chứ không chỉ xuất bản bài báo nào, chả hạn họ sẽ gửi các kết quả nghiên cứu mới nhất cho mình tham khảo, giảm các uổng bản quyền khi đọc báo trên các trang web của tùng san lớn.

Ở đây tôi mới chỉ đề cập đến xuất bản trên các tùng san, ngoại giả còn có tiêu chuẩn hóa ISO hay làm bản quyền cho kết quả nghiên cứu. Các quá trình này đòi hỏi thời kì lâu hơn, khoảng 4 đến 5 năm và điều kiện khe khắt hơn. chả hạn để làm tiêu chuẩn ISO, kết quả phải đăng trên một tùng san uy tín nhất là ba năm, để bảo đảm đo độ chuẩn cao của kết quả khoa học do có số lượng lớn người đọc và phản biện. Các quá trình này đều đòi hỏi độ uy tín từ tác giả và mối quan hệ của họ với ban biên tập và các nhà khoa học khác.
Các nghĩ suy trong nghiên cứu khoa học

Khi đọc kết quả khoa học mới, thường người làm nghiên cứu nên đặt ngay một số câu hỏi cho bản thân. chả hạn "liệu kết quả này có đúng không", hay chỉ dùng trong nghĩa hẹp và không xác thực ở nhiều trường hợp nhỏ khác, "liệu kết quả này có thể cải thiện hơn". Nếu giải quyết được câu hỏi trên, thì đó chính là những ý tưởng căn bản và chìa khóa cho một bài báo khác mà bạn và các hiệp tác sẽ là tác giả.

Để tự đưa ra câu hỏi như vậy tại đúng các điểm cốt lõi của bài báo, và có kiên tâm giải quyết vẹn tròn là không đơn giản, đòi hỏi người đọc có phương pháp nghĩ suy được nuôi dưỡng và phát triển trong một thời kì dài, thường từ học phổ quát đến đại học và nghiên cứu sinh.

Khi tôi bắt đầu học đại học tại Anh, các thầy thường dùng cây châm ngôn tiếng Latinh "Nullius in verba" (tiếng anh là "Taking nobody’s word for it") của Viện Hàn lâm Khoa học London, có nghĩa là không chỉ nên tin vào lời nói của bất kỳ ai.

Điều này khá đặc biệt so với cách nghĩ của người Á Đông chúng ta. Một thí dụ điển hình tại đại học Oxford, ngoài giờ lên giảng đường như bao trường đại học khác, các sinh viên còn được học vài buổi một kèm một hoặc một kèm hai kéo dài một tiếng đồng hồ mỗi tuần. Đây là phong cách học tập được duy trì hàng trăm năm tại Oxford. Tuy nhiên nếu chỉ ngồi nghe ba nói cả tiếng thì quả là hơi lâu. Ngược lại đây là cơ hội để các bạn trẻ có thể tranh luận với ba một cách thẳng thắn, bảo vệ lập luận của mình hay phê phán ý tưởng của ba. Để làm điều này, chính các ba phải là người khuyến khích sinh viên nói ra những suy nghĩ của họ, động viên họ theo đuổi các ý tưởng táo bạo hơn.

Những kinh nghiệm này đúng là các yếu tố cần thiết để làm khoa học mũi nhọn, hãy đạt đến đỉnh cao trong mỗi ngành nghề khác của cuộc sống. Ngoài chất lượng công trình nghiên cứu để xuất bản trên các tạp chí lớn đòi hỏi người viết có lập luận thuyết phục, và không kém phần quan trọng là khả năng phản biện các chỉ trích từ hội đồng xét duyệt.